Nhiều lúc chúng ta tự hỏi
tại sao giải Nobel về kinh tế thường lại được chọn trao cho các nhà khoa học Mỹ
nhiều đến vậy? Đã có nhiều bài báo phân tích về hiện tượng này, và phần lớn các
ý kiến phân tích đó được cho là có lý và đúng đắn. Tuy nhiên trong trường hợp
của giải Nobel Kinh tế năm nay điều đặc biệt là hai nhà khoa học được xướng tên
thực chất không phải là các nhà kinh tế, thậm chí họ còn phát biểu: "chúng
tôi thậm chí chưa theo học một khóa nào giảng dạy về kinh tế". Thế thì tại
sao họ lại được lựa chọn như là các nhà kinh tế học xuất sắc của nhân loại được
đề cử nhận giải?
Câu trả lời hết sức đơn
giản: họ là những nhà toán học, áp dụng toán học để giải các bài toán mang lại
hiệu quả cụ thể cho xã hội, những bài toán có tên gọi "Cặp đôi" hay
"Matching". Họ nghiên cứu toán học với niềm đam mê cao độ, theo đuổi
và hoàn thiện những ý tưởng về các thuật toán có thể tạo nên "một thị
trường mới" từ một bài báo nhỏ cách đây chừng 50 năm. Cái mà họ mang lại
cho xã hội là hiệu quả kinh tế được công nhận và áp dụng rộng rãi, được các nhà
kinh tế học tán thưởng, vì vậy họ xứng đáng nhận giải Nobel kinh tế mặc dù hai
nhà khoa học này đơn thuần chỉ là nghiên cứu về các thuật toán.
Nếu đưa thuật toán của hai
nhà toán học này so sánh với các công trình toán học của các nhà toán học khác
thì có thể thấy các thuật toán của các "Tân Nobel Kinh tế" không có
gì mới mẻ cho lắm, và khó xứng đáng gọi là nghiên cứu đột phá trong toán học.
Nhưng một công trình toán học dẫu có đồ sộ đến thế nào, sâu sắc đến bao nhiêu
mà không giúp ích gì cho xã hội thì khó có thể gọi công trình đó có giá trị
thực tiễn.
Vậy hai nhà toán học
trên, với công trình mang tính thực tiễn của mình rất xứng đáng nhận giải Nobel
Kinh tế.
Đó chính là điều mới mẽ
mang tính thực dụng của các nhà khoa học Mỹ.
Một lần nữa chúng ta hãy
đọc lại bài viết về hai nhà khoa học này trên báo vnexpress.
PVH
Vào 6h chiều 15/10 (giờ
Hà Nội), Viện Hàn lâm Khoa học Hoàng gia Thụy Điển công bố chủ nhân của giải
Nobel Kinh tế học năm nay, thuộc về Alvivin E.Roth Đại học Harvard (Mỹ) và
Lloyd S.Shapley, Đại học California
(Mỹ).
Nghiên cứu đạt giải của
hai ông đề cập về "Lý thuyết phân phối ổn định và thực tiễn về tạo lập thị
trường". Từ đó, đưa ra phương pháp khớp các tác nhân kinh tế khác nhau như
học sinh với trường học hay thậm chí là người hiến nội tạng với bệnh nhân.
|
Hai tác giả đoạt giải Nobel Kinh tế 2012, ông
Lloyd S.Shapley (phải) và Alvivin E.Roth.
|
Alvivin E.Roth sinh năm
1951, hiện giảng dạy môn Kinh tế và Quản trị Kinh doanh tại Đại học Harvard
(Mỹ). Ông nổi tiếng với các đóng góp về lý thuyết trò chơi, tạo lập thị trường
và kinh tế học thực nghiệm.
Lloyd S.Shapley sinh năm
1923, hiện giảng dạy môn Toán và Kinh tế học tại Đại học California (Mỹ). Ông được rất nhiều chuyên
gia kinh tế coi là biểu tượng của "Lý thuyết trò chơi".
Lloyd Shapley sử dụng
"Lý thuyết trò chơi hợp tác" để nghiên cứu và so sánh các phương pháp
ráp nối khác nhau. Vấn đề cốt lõi ở đây là phải đảm bảo sự ráp nối thật ổn định
giữa hai yếu tố tham gia. Vì vậy, Sharpley và các đồng nghiệp đã đưa ra một
phương pháp đặc thù mà ông gọi là Thuật giải Gale-Shapley. Phương pháp này cũng
hạn chế khả năng điều khiển quá trình ráp nối của các yếu tố. Nhờ đó, ông có
thể chỉ ra bằng cách nào phương pháp thiết kế đặc thù có thể làm lợi một cách
có hệ thống cho một hoặc cả hai mặt của thị trường.
Alvin Roth thừa nhận các
nghiên cứu lý thuyết của Sharpley có thể làm sáng tỏ hoạt động của thị trường
trong thực tế. Bằng một chuỗi nghiên cứu thực nghiệm, Roth và các đồng nghiệp
đã chứng minh được rằng ổn định là chìa khóa để hiểu rõ sự thành công của một
thể chế thị trường nhất định. Sau đó, ông chứng minh kết luận này thông qua
nhiều thí nghiệm có hệ thống. Roth cũng giúp tái lập các phương pháp ráp nối
hiện tại giữa bác sĩ và bệnh viện, học sinh với trường học và thậm chí là người
hiến nội tạng với bệnh nhân. Những cải tổ này đều dựa trên Thuật giải
Gale-Shapley, kèm theo một số điều chỉnh trong từng trường hợp riêng biệt và
ràng buộc về đạo đức.
Cũng như những người đoạt
giải Nobel khác, hai nhà khoa học này sẽ được trao giải thưởng trị giá 8 triệu
kronor Thụy Điển (tương đương 1,2 triệu USD).
Năm 2011, Nobel Kinh tế
được trao cho hai nhà khoa học người Mỹ là Thomas J. Sargent - nhà kinh tế học
chuyên nghiên cứu kinh tế vĩ mô, và tiền tệ và Christopher A. Sims - Đại học Princeton . Nghiên cứu của hai ông nói về mối quan hệ giữa
chính sách kinh tế vĩ mô và tác động của chúng lên nền kinh tế.
No comments:
Post a Comment