Thực tế hiện
nay, bình đẳng giữa vợ và chồng, giữa nam và nữ vẫn còn bất cập. Sự phân biệt,
đối xử về giới dẫn đến hệ lụy là tình trạng “nam thừa nữ thiếu” - mất cân bằng giới tính khi sinh (MCBGTKS).
Vấn đề này không chỉ diễn ra ở một quốc gia mà còn có tính toàn cầu, vì vậy
không chỉ dừng lại ở mức báo động…
THỰC TRẠNG
Theo tự
nhiên, tỷ số giới tính khi sinh là 103-106 bé trai/100 bé gái. Mất cân bằng
giới tính khi sinh là số bé trai sinh ra lớn hơn 107/100 bé gái. Ở nước ta
MCBGTKS xảy ra từ năm 2006 (109 trai/100 gái) nhưng tốc độ tăng rất nhanh; 9
tháng đầu năm 2012, tỷ số giới tính khi sinh là 112,6 bé trai/100 gái. MCBGTKS
ở Việt Nam
diễn ra muộn so với nhiều nước khác trên thế giới nhưng nó được ví như “cơn lũ”
bởi tốc độ gia tăng nhanh.
Tại Tiền
Giang trong 5 năm gần đây, tỷ số giới tính khi sinh từ 110-117 bé trai/100 bé
gái, tức là đã ở trên mức bình quân của cả nước; 9 tháng đầu năm 2012, tỷ số
giới tính khi sinh là 113,6 trai/100 gái.
Điều đáng lo
ngại là tình trạng MCBGTKS đang diễn ra trong bối cảnh nhiều nước trong khu vực
như Hàn Quốc, Trung Quốc phải “nhập khẩu” cô dâu từ Việt Nam, vì vậy chúng ta
sẽ phải đối mặt với những hậu quả nặng nề hơn nhiều so với các nước có tình
trạng tương tự.
MCBGTKS đang
là thách thức cho toàn xã hội. Do tính chất quan trọng của vấn đề nên ngày
3-11-2012, Phó Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Thiện Nhân đã chủ trì hội thảo Quốc
gia về MCBGTKS tại Hà Nội với sự tham dự của Phó Chủ tịch UBND, lãnh đạo Sở Y
tế 63 tỉnh, thành cả nước; các bộ, ngành trung ương và các tổ chức quốc tế để
bàn các giải pháp giảm thiểu MCBGTKS. Hội thảo đã nêu 3 nguyên nhân đưa đến
tình trạng trên:
Nguyên nhân
cơ bản: Gia đình quy mô nhỏ, mỗi cặp vợ chồng chỉ sinh 1-2 con; tâm lý trọng nam,
khinh nữ; có nam để nối dõi tông đường, thờ cúng tổ tiên, phụng dưỡng cha mẹ…
đã tạo áp lực có con trai bằng mọi giá.
Nguyên nhân
phụ trợ: Các cặp vợ chồng tìm kiếm và sử dụng các dịch vụ lựa chọn giới tính
trước sinh. Những tiến bộ trong y học, nhất là các kỹ thuật lựa chọn giới tính
trước sinh và cơ hội tiếp cận ngày càng dễ dàng đã góp phần làm gia tăng
MCBGTKS.
Nguyên nhân
trực tiếp: Lạm dụng những tiến bộ khoa học, y học để lựa chọn giới tính trước
sinh: trước lúc có thai (chế độ ăn uống, chọn ngày phóng noãn…), trong lúc thụ
thai (chọn thời điểm phóng noãn, chọn phương pháp thụ tinh, lọc rửa tinh trùng
để chọn tinh trùng mang nhiễm sắc thể Y…) sau khi đã có thai (siêu âm, bắt
mạch, chọc hút xét nghiệm dịch ối…) để tạo giới tính thai nhi, xác định giới
tính thai nhi, phá thai chọn lọc giới tính (trai thì giữ, gái thì nạo - phá).
Trong khi đó,
Luật Bình đẳng giới, Pháp lệnh Dân số năm 2003, Nghị định 114 năm 2006 và Nghị
định 55 năm 2009 của Chính phủ đều có quy định nghiêm cấm và xử phạt hành vi
lựa chọn giới tính thai nhi nhưng các quy định này chưa được thực hiện nghiêm.
Luật Bảo vệ và Chăm sóc sức khỏe nhân dân cho phép phụ nữ được nạo, phá thai
theo nguyện vọng nên một số gia đình phá bỏ thai khi thai nhi là gái đã khiến
MCBGTKS ngày càng tăng.
HỆ LỤY NẶNG
NỀ CHO TƯƠNG LAI
Bà Guilmoto,
chuyên gia của Quỹ Dân số Liên hợp quốc (UNFPA) cho biết, có 14 nước khu vực
châu Á nằm trong tình trạng MCBGTKS. Điều này đã khiến sự “thiếu hụt” phụ nữ và
trẻ em gái tăng từ 66 triệu vào năm 1950 tăng lên 117 triệu tại thời điểm hiện
nay; và có tới 7,7% phụ nữ dưới 20 tuổi đang thiếu hụt tại các nước có tình
trạng phân biệt giới tính.
Nếu không có
sự can thiệp tích cực thì tỷ số giới tính khi sinh của nước ta tiếp tục tăng
lên khoảng 125 bé trai/100 bé gái vào năm 2020 và tiếp tục duy trì cho đến năm
2050. Các chuyên gia quốc tế đã tính toán với tỷ số giới tính khi sinh như hiện
nay thì đến năm 2020 nước ta có khoảng 700.000 đàn ông trong độ tuổi 15-49 “dư
thừa” và đến năm 2050 là khoảng 3 triệu người.
Trung Quốc,
Hàn Quốc, Đài Loan đã phải nhập khẩu “cô dâu”. Và phần lớn trong số hàng chục
ngàn phụ nữ Việt Nam
kết hôn với người nước ngoài trong thời gian qua đã trở thành cô dâu ở các nước
và vùng lãnh thổ nói trên. Theo dự báo lạc quan nhất thì cũng có tới hàng triệu
đàn ông Việt Nam
sẽ phải chịu đựng cuộc sống độc thân, đơn côi suốt đời. Hậu quả về kinh tế, sức
khỏe, tinh thần, an ninh và an sinh xã hội… chắc chắn sẽ nặng nề.
MCBGTKS không
những không cải thiện vị thế của phụ nữ mà thậm chí còn làm gia tăng thêm sự
bất bình đẳng giới. Xã hội sẽ đối diện với những dự báo thiếu lạc quan: Nhiều
phụ nữ có thể phải kết hôn sớm hơn, tỷ lệ ly hôn và tái hôn của phụ nữ sẽ tăng
cao; tình trạng buôn bán phụ nữ và trẻ em gái, mại dâm gia tăng, hôn nhân vụ
lợi và tội phạm tình dục...
ĐI TÌM GIẢI
PHÁP
Giải quyết
vấn đề MCBGTKS là khó nhưng không phải không làm được. Tất nhiên, để thực hiện
có hiệu quả thì không thể một sớm một chiều và không thể bằng một biện pháp đơn
lẻ nào. Giải pháp quan trọng cần kể đến trước nhất là tuyên truyền vận động
thay đổi hành vi của cộng đồng, cùng với đó là việc tăng cường sự quản lý của
Nhà nước bằng các biện pháp hành chính. Giảm thiểu MCBGTKS là nhiệm vụ không
chỉ của riêng ngành Y tế, ngành Dân số mà đây là nhiệm vụ chung của cả hệ thống
chính trị.
Theo Phó Thủ
tướng Chính phủ Nguyễn Thiện Nhân, một trong số các giải pháp là đưa vấn đề
giáo dục giới tính vào nhà trường, để các em có những nhìn nhận đúng đắn hơn về
giới và bình đẳng giới. Cần thiết phải có sự tham gia của các đoàn thể, đặc biệt
là tổ chức Đoàn thanh niên.
Phó Thủ tướng
Chính phủ Nguyễn Thiện Nhân cho rằng, sự gia tăng của MCBGTKS trong những năm
qua, đặc biệt là 3 năm trở lại đây rất đáng lo ngại. Tình trạng này về lâu dài
sẽ tác động không tốt tới sự phát triển của đất nước, là thách thức cho toàn
xã hội.
Phát biểu
tại hội thảo, Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân cho rằng để giảm tình
trạng mất cân bằng giới tính khi sinh phải có quá trình can thiệp lâu
dài, bền bỉ của các cơ quan truyền thông.
Giải pháp
giáo dục gia đình về chức năng, trách nhiệm chung của cha mẹ vì lợi ích con
cái, không phân biệt đối xử với con gái - con trai; truyền thông cho mọi đối
tượng, trong đó tập trung vào những cặp vợ chồng trẻ, vợ chồng đã có 2 con một
bề là con gái.
Trước hết mỗi
cán bộ, đảng viên cần gương mẫu chấp hành tốt trong gia đình, rồi dần thuyết
phục, vận động người thân, dòng họ và mọi người dân trong cộng đồng làm theo.
Quan tâm chăm
sóc, có chế độ an sinh tốt cho người cao tuổi cũng là một giải pháp góp phần không
nhỏ vào việc hạn chế tình trạng bất bình đẳng giới. Vì khi đó nỗi lo “khi về
già biết nhờ cậy ai?” sẽ được giải tỏa; người dân sẽ coi con gái cũng như con
trai, tâm lý “trọng nam khinh nữ” sẽ dần được xóa bỏ...
Tỷ số giới
tính khi sinh bình thường là một trong những biểu hiện quan trọng để đánh giá
mức tiến bộ của bình đẳng giới trong xã hội.
Điều này
sẽ gây những hệ quả khó lường trong tương lai, ảnh hưởng tiêu cực đến
cuộc sống cá nhân, gia đình và sự phát triển đất nước.
K.L
No comments:
Post a Comment