Friday, 11 November 2011

“ Sống chết mặc bay...”.

Câu chuyện mà nhà văn Phạm Duy Tốn đã viết ở thể kỷ trước hình như vẫn còn nóng hổi và được liên hệ với tình hình ngập lụt rất nặng mà một phần là do “nhân tai” tại các tỉnh miền Trung vừa qua.
Xin các ban cùng đọc, và ngẫm lại các sự kiện và xâu chuổi chúng lại với nhau.  Sẽ có những kết luận và bài học cho bản thân trên quan điểm riêng của từng độc giả.
Nếu là nhà lãnh đạo, kế sách xây dựng các đập và nhà máy thủy điện trên thượng nguồn các sông vốn rất dốc và ngắn của miền Trung Việt Nam đã không mang lại hiệu quả, ít nhất là tính tới thời điểm này, với các lý do:
1) Lũ lụt ngày càng nhiều hơn, gây thiệt hại lớn hơn;
2) Rừng đầu nguồn, lá phổi của tiểu vùng đã bị chặt phá để ưu tiên làm hồ thủy lợi, đập thủy điện;
3) Số tiền người dân bị thiệt hại và tiền nhà nước để khắc phục hậu quả (suy cho cùng là tiền thuế của dân) là không kể xiết, phải tính tới việc người dân còn mắc nợ các ngân hàng và không thể trả nợ, lãi vẫn bị tính đều đều;
4) Doanh nghiệp quản lý hồ thủy điện (hoặc cơ quan nhà nước quản lý hồ thủy lợi) không phải gánh chịu bất cứ thiệt hại nào đã nêu ở trên, mấy chục sinh mạng bị lũ cuốn vừa rồi là hết sức lớn.

Đúng là “ Sống chết mặc bay...”.

PVH
Sống chết mặc bay
(Tả-chân tiểu-thuyết)
Phạm Duy Tốn         
   Gần một giờ đêm. Trời mưa tầm tã. Nước sông Nhị Hà lên to quá; khúc đê làng... thuộc phủ... xem chừng núng thế lắm, không khéo thì vỡ mất.
   Dân phu kể hàng trăm nghìn con người, từ chiều đến giờ, hết sức gìn giữ, kẻ thì thuổng, người thì cuốc, kẻ đội đất, kẻ vác tre, nào đắp, nào cừ, bì-bõm dưới bùn lầy, ngập quá khỉu chân, người nào người ấy, lướt thướt như chuột. Tình cảnh này trông thật là thảm.
   Tuy đánh trống liên thanh, ốc thổi vô hồi, tiếng người xao xác, gọi nhau sang-hộ, nhưng xem chừng ai cũng mệt lử cả rồi. ấy vậy mà trên trời thời mưa vẫn tầm tã trút xuống, dưới sông thời nước cuồn cuộn bốc lên. Than ôi! Sức người khó lòng địch nổi với sức trời! Thế đê không sao cự lại được với thế nước! Lo thay! Nguy thay! Khúc đê này hỏng mất!...
   Ấy, lũ con dân đang chân lấm tay bùn, trăm lo nghìn sợ, đem thân hèn yếu đuối mà đối với sức mưa to lớn, để bảo-thủ lấy tánh-mạng-gia-tài; thế thời quan cha mẹ ở đâu?
   Thưa rằng: Ðang ở trong đình kia, cách đó chừng bốn năm trăm thước. Ðình ấy cũng ở trên mặt đê, nhưng cao mà vững chãi, dẫu nước to thế nữa, cũng không việc gì.
   Trong đình, đèn thắp sáng trưng; nha lệ lính tráng, kẻ hầu người hạ, đi lại rộn ràng. Trên sập mới kê ở gian giữa, có một mình quan phụ-mẫu, uy-nghi chễm-chện ngồi. Xung quanh sập, bắc bốn ghế mây, bắt đầu từ phía hữu quan, thì có thầy đề, rồi lần lượt đến thầy đội-nhất, thầy thông-nhì, sau hết, giáp phía tay tả ngài, thì đến chánh-tổng sở-tại, cùng ngồi chầu bài.
   Ngoài kia tuy mưa gió ầm-ầm, dân phu rối rít; nhưng trong này xem chừng tĩnh mịch, nghiêm trang lắm, trừ quan phụ-mẫu ra, mọi người không ai dám to tiếng. So với cảnh trăm họ đang vất vả lấm-láp, gội gió tắm mưa, như đoàn sâu lũ kiến ở trên đê, thời ở trong đình rất là nhàn-nhã, đường-bệ, nguy-nga: nào quan ngồi trên, nào nha ngồi dưới; người nhà, lính lệ như khoanh tay sắp hàng, nghi-vệ tôn-nghiêm, như thần như thánh. Thỉnh thoảng nghe tiếng quan phụ mẫu gọi: "Ðiếu, mày!" tiếng tên lính thưa: "Dạ"; tiếng thầy Ðề hỏi: "Bẩm, bốc?" tiếng quan lớn truyền "ừ". Kẻ này: "Bát-xách... n", người kia: "Thất-văn... Phỗng", lúc mau, lúc khoan, ung-dung êm-ái, khi cười, khi nói, vui-vẻ dịu-dàng. Thật là tôn-kính, xứng đáng với một vì phúc-tinh...
   Khi đó, ván bài quan đã chờ rồi. Ngài sơi bát yến vừa xong, ngồi khểnh vuốt râu, rung đùi, mắt đang mải trông đĩa nọ, bỗng nghe ngoài xa, tiếng kêu vang dậy trời đất... Mọi người giật nẩy mình, duy quan vẫn điềm-nhiên, chỉ lăm-le chực người ta bốc trúng quân mình chờ mà hạ. Vì ngài sắp ù to.
   Có người khẽ nói:
   - Bẩm, đê có khi vỡ!
   Ngài cau mặt gắt rằng:
   - Mặc kệ.
   Rồi ngài xếp bài lại, quay gối dựa sang bên tay phải, nghiêng mình, bảo thầy đề-lại:
   - Có ăn không thì bốc chứ!
   Thầy đề vội vàng:
   - Dạ, bẩm bốc.
   Vừa lúc đó, thì tiếng người kêu rầm-rĩ, càng nghe, càng lớn. Lại có tiếng ào ào như thác chảy xiết; rồi lại có tiếng gà, tiếng chó, trâu, bò kêu vang tứ phía.
   Bấy giờ ai nấy ở trong đình, đều nôn-nao sợ hãi.  Thốt nhiên một người nhà quê, mình mẩy lấm láp, tất tả chạy xông vào, thở không ra lời:
   - Bẩm..., quan-lớn,... Ðê vỡ rồi!
   Quan-lớn đỏ mặt, tía tai, quay ra, quát rằng:
   - Ðê vỡ rồi!... Ðê vỡ rồi, thời ông cách cổ chúng mầy, thời ông bỏ tù chúng mày! Có biết không?... Lính đâu? Sao bay dám để cho nó chạy xồng xộc vào đây như vậy? Không còn phép tắc gì nữa à?
   - Dạ, bẩm...
   - Ðuổi cổ nó ra!
   Ngài quay vào, hỏi thầy đề:
   - Thầy bốc quân gì thế?
   - Dạ, bẩm con chưa bốc.
   - Thì bốc đi chứ!
   Thầy đề, tay run cầm cập, thò vào đĩa nọc, rút một con bài lật ngửa, xướng rằng:
   - Chi chi!
   Quan lớn vỗ tay xuống sập kêu to:
   - Ðây rồi!... Thế chứ lại!
   Rồi ngài vội vàng xòe bài, miệng vừa cười, vừa nói:
   - Thông tôm, chi chi nẩy!... Ðiếu mày!...
*        *
   Ấy, trong khi quan-lớn ù ván bài to như thế, thì khắp mọi nơi miền đó, nước tràn lênh láng, xoáy thành vực sâu, nhà cửa trôi băng, lúa má ngập hết; kẻ sống không chỗ ở, kẻ chết không nơi chôn, lênh-đênh mặt nước, chiếc bóng bơ vơ, tình cảnh sầu thảm, kể sao cho xiết!

No comments:

Post a Comment